January 15, 2017

Chủ nghĩa Tự do đang rút lui - Kết thúc một giấc mơ (Phần 2)


Robin Niblett

Trần Ngọc Cư dịch

Phần 1

NƯỚC MỸ TRÊN ĐƯỜNG RÚT LUI

Các nhà lãnh đạo nhóm BRICS

Trong bảy thập niên qua, Hoa Kỳ cung cấp một chiếc dù an ninh, ở dưới đó hệ thống quốc tế tự do đã lớn mạnh. Nhưng hiện nay, Hoa Kỳ đang hướng vào bên trong hơn bất cứ một thời điểm nào kể từ Thế chiến II. Sau các cuộc chiến tốn kém tại Afghanistan và Iraq và tình trạng hỗn loạn tiếp theo sau vụ can thiệp vào Libya, Obama đã rà soát lại vai trò quốc tế của Mỹ, thường xuyên khuyến khích các đồng minh của Mỹ tại châu Âu và Trung Đông nhận thêm trách nhiệm bảo vệ an ninh của chính họ. Trong cuộc chạy đua vào Nhà trắng của mình, Trump đã bẻ quẹo luận cứ này thành một cuộc đổi chác mua bán rõ ràng: Mỹ sẽ trở thành một siêu cường đánh thuê [a mercenary superpower], chỉ bảo vệ những nước nào chịu chi trả, ngõ hầu Mỹ có thể tập trung vào nỗ lực phục hồi lại sức mạnh vĩ đại của mình đối với người dân trong nước. Với tư duy này, Trump quên mất bài học đắt giá là, đầu tư vào an ninh của các đồng minh của Mỹ là đường lối hữu hiệu nhất để bảo vệ an ninh và các lợi ích kinh tế của chính nước Mỹ. Tuy nhiên, việc Trump sẽ lãnh đạo đất nước đích xác theo đường lối nào thì vẫn còn chưa rõ.

Dù đúng dù sai, các đồng minh của Hoa Kỳ, từ Âu sang Á, hiện đang lo sợ rằng siêu cường Mỹ có thể không còn là một đối tác dấn thân và tôn trọng các cam kết. Những mối lo này đã dấy lên vào một giai đoạn nguy hiểm. Một châu Âu đang chao đảo vì sự yếu kém về định chế và kinh tế, rất dễ bị tổn thương trước các hình thức áp lực khác nhau mà Nga đang sử dụng hiện nay, gồm hỗ trợ tài chính cho các đảng dân túy châu Âu và đe dọa mở các cuộc điều binh trên các đường biên giới phía đông của NATO. Bất chấp những yếu kém kinh tế của Nga, chủ trương của Putin về một trật tự châu Âu mới, đặt cơ sở trên chủ quyền văn hóa và dân tộc, có sức thu hút mạnh mẽ đối với các đảng phái dân tộc chủ nghĩa ngày một ồn ào tại châu Âu, từ Đảng Độc lập Vương quốc Anh đến Mặt trận Dân tộc Pháp và Fidesz [Liên minh những người Dân chủ trẻ] của Hungary, mà lãnh đạo đảng, Thủ tướng Viktor Orban, đã công khai cổ vũ việc xây dựng một “Nhà nước dân chủ phi tự do” [an illiberal state].

Nhiều đồng minh khác và đối tác dân chủ của Mỹ trên thế giới cũng đang lúng túng. Nhật Bản và Nam Hàn đang vất vả phấn đấu để đối đầu với hai thách đố đến cùng một lúc, dân số già nua và nền kinh tế quá lệ thuộc vào xuất khẩu. Nhưng những xung khắc lịch sử không cho phép hai nước đưa ra một mặt trận thống nhất để thúc đẩy thể chế dân chủ tự do trong khu vực. Những quốc gia dân chủ có thị trường mới nổi, như Brazil, Ấn Độ, Nigeria, và Nam Phi, cho tới nay vẫn chưa khắc phục được những trở ngại cố hữu đối với việc tăng trưởng kinh tế bền vững và sự đoàn kết xã hội. Ngoài ra, việc nhận thức rằng quyền lực toàn cầu của Mỹ đang suy yếu và rằng đồng thuận Washington không đảm bảo tiến bộ kinh tế đã khuyến khích các thủ lĩnh độc tài tại những nước khác nhau như Philippines, Thái Lan, và Turkey -- những thủ lĩnh đã và đang làm suy yếu các cơ chế kiểm soát và quân bình quyền lực vốn là nền móng củng cố thể chế dân chủ tự do.

NGƯỜI CHÊ TA ĐỤC, NGƯỜI ĐÀ TRONG CHƯA (POT, KETTLE)

Rõ ràng là, các nước hậu thuẫn trật tự quốc tế tự do từ lâu đã bày tỏ một sự cam kết thiếu nhất quán đối với các nguyên tắc của hệ thống này. Hoa Kỳ và đồng minh nói chung có lẽ đã thúc đẩy việc tôn trọng chế độ pháp trị và điều hành đất nước một cách cởi mở bên trong biên giới của mình, nhưng mục tiêu chủ yếu ở bên ngoài khối này là bảo vệ an ninh và các lợi ích kinh tế của phương Tây, cho dù làm như thế có gây tổn thương cho uy tín của hệ thống quốc tế tự do đi nữa.

Mỹ thường hành động đơn phương hoặc một cách có chọn lọc tuân theo những luật lệ của trật tự quốc tế mà Mỹ hậu thuẫn. Mỹ xâm lược Iraq dưới một sự ủy nhiệm hợp pháp bị nhiều nước chống đối, và Quốc hội Mỹ đã từ chối phê chuẩn Công ước LHQ về Luật Biển, một trong số nhiều công ước và hiệp ước đa phương khác. Và năm 2011, các Chính phủ Anh, Pháp, và Mỹ đã lạm dụng sự ủy nhiệm -- được ban bố bởi Nghị quyết 1973 của Hội đồng Bảo an LHQ cho phép sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ thường dân tại Libya – khi các Chính phủ này tham gia lật đổ lãnh tụ của Libya, Muammar al-Qaddafi. Và nhiều Chính phủ phương Tây thay phiên nhau lên án Nga và Tổng thống Bashar al-Assad của Syria đã oanh kích bừa bãi thường dân tại Syria trong khi chính những nước phương Tây này lại hậu thuẫn chiến dịch đẫm máu của Saudi Arabia tại Yemen.

Do đó, người ta không mấy ngạc nhiên khi các đối thủ của phương Tây lý giải rằng những lời kêu gọi nới rộng trật tự quốc tế tự do chỉ là một lý cớ để bành trướng quyền lực chính trị phương Tây. Putin nêu lên chủ đề này vào tháng Mười vừa qua, tại cuộc họp thường niên của Hội quán Đối thoại Valdai, khi ông lên án Hoa Kỳ về việc thúc đẩy toàn cầu hóa và an ninh “cho chính mình, cho một thiểu số quốc gia, nhưng không cho tất cả thế giới.” Người ta cũng không ngạc nhiên là, định chế đa phương chính của thế giới, Hội đồng Bảo an LHQ, vẫn còn đóng băng bởi những bế tắc xưa cũ, chia rẽ vì những bất đồng giữa một bên là Nga và Trung Quốc và bên kia là Pháp, Anh, và Mỹ. Do đó, những nỗ lực của phe tự do nhằm cải tổ quan niệm chủ quyền quốc gia, như đưa ra khái niệm trách nhiệm bảo hộ [the responsibility to protect/R2P] và việc thành lập Toà Hình sự Quốc tế, không có tính hợp pháp quốc tế [international legitimacy] -- chẳng hạn, ta có thể dẫn chứng sự thất bại đang diễn ra trong việc ngăn chặn bạo động tại Syria và việc trong tháng Mười vừa qua các nước Burundi, Gambia, và Nam Phi tuyên bố sẽ rút chân ra khỏi Toà án Hình sự Quốc tế. Thậm chí Internet, từng hứa hẹn thúc đẩy một trật tự quốc tế tự do thông thoáng hơn bằng cách gia tăng quyền lực cho cá nhân thay vì cho Chính phủ, đang ngày càng bị khống chế bởi sự phân cực ý thức hệ liên quan đến các tường lửa quốc gia, các phương pháp giám sát, và các vi phạm quyền riêng tư.

GIỮ GÌN TRẬT TỰ

Liệu những thách đố này có báo hiệu sự cáo chung của trật tự quốc tế tự do không? Chắc là không. Các nước dân chủ tự do có truyền thống lâu đời vẫn giữ được sức bật của mình. Dù họ có đối mặt với bất cứ thách đố nào trong nước, từ tình trạng bất bình đẳng đến nạn thất nghiệp, họ vẫn có thể tiếp cận vấn đề từ thế mạnh so với các nước có thị trường mới nổi, trong đó có nhiều nước có mức tăng trưởng GDP cao nhưng chưa có thể chuyển đổi từ tăng trưởng do xuất khẩu và đầu tư [export- and investment-led growth] sang tăng trưởng do tiêu thụ và sáng kiến [consumtion- and innovation-driven growth]. Các thể chế dân chủ phương Tây được thiết kế để cho phép người dân nói lên những bức xúc và đổi mới tầng lớp lãnh đạo chính trị. Các nền kinh tế phương Tây hoạt động một cách tương đối năng động, minh bạch và cởi mở, do đó thúc đẩy được sáng kiến. Những phẩm chất này cho phép các định chế chính trị của họ dễ dàng phục hồi tính hợp pháp và các nền kinh tế của họ nhanh chóng lấy lại đà tăng trưởng. Trái lại, các nước trung ương tập quyền hay phi tự do, chưa chứng minh được rằng các hệ thống chính trị của họ sẽ tồn tại sau các chuyển đổi kinh tế mà họ đang tiến hành.

Tuy vậy, các nước dân chủ tự do không thể trì hoãn các quyết định chính trị khó khăn thêm nữa. Họ cần phải chỉnh sửa chính mình nếu muốn duy trì trật tự quốc tế tự do của họ. Họ cần đẩy mạnh năng suất cũng như đồng lương công nhân, nâng cao sự tham gia của lực lượng lao động thậm chí trong khi các công nghệ mới loại bỏ công ăn việc làm cũ, giúp người di dân hội nhập vào đời sống, đồng thời quản lý các xã hội đang già nua, từng bước diễn tiến từ nhà nước phúc lợi có ngân sách trung ương sang các xã hội phúc lợi do địa phương quản trị, trong đó các vùng, các thành phố, và các chính quyền đô thị tự trị kiểm soát một phần lợi tức thuế [tax income] lớn hơn trước và nhờ thế có thể điều chỉnh việc cung cấp dịch vụ xã hội phù hợp với các nhu cầu địa phương. Các Chính phủ tự do có thể vươn lên đáp trả những thách đố này, hoặc là bằng cách đầu tư hơn nữa vào giáo dục, cải thiện cơ sở hạ tầng vật lý và kỹ thuật số [physical and digital infrastructure], hoặc là hiện đại hóa các qui định thường bóp nghẹt doanh nghiệp và đà tăng trưởng trong khu vực dịch vụ. Đây có thể chỉ là những bước khiêm nhượng. Nhưng sức hấp dẫn và, trên thực tế, sự tồn tại của một trật tự quốc tế tự do tùy thuộc vào khả năng mang lại những lợi ích cho các xã hội nằm trong trật tự này, những lợi ích ưu việt hơn bất cứ một trật tự nào khác.

Nếu thế giới tự do có thể điều chỉnh lại hướng đi của mình và tránh áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch, nó có khả năng thấy được rằng các cường quốc đang lên phi-phương Tây (non-Western rising powers), chủ yếu là Trung Quốc, sẽ muốn duy trì trật tự kinh tế quốc tế hiện hành với các thị trường tương đối cởi mở và các luồng đầu tư tự do. Dẫu sao, chỉ bằng cách thông qua sự hội nhập liên tục vào chuỗi cung cấp hàng hóa, dịch vụ, nhân lực, và kiến thức toàn cầu, các thị trường mới nổi [emerging makets] mới có thể đáp ứng các nguyện vọng của giai cấp trung lưu đang gia tăng tại nước họ. Như học giả G. John Ikenberry nhận xét trong cuốn Liberal Leviathan, một tác phẩm ông xuất bản năm 2011, Hoa Kỳ và Trung Quốc – hai cường quốc có khả năng cao nhất trong việc định đoạt tương lai của trật tự thế giới – có thể cả hai đều không nhân nhượng trên các nguyên tắc cốt lõi về việc quản trị đất nước và an ninh quốc gia, nhưng họ có thể chung sống tốt đẹp nhất và cùng phát triển trong một trật tự kinh tế quốc tế tự do.

Do đó, việc Trung Quốc tiếp tục phát triển kinh tế đều đặn hoàn toàn nằm trong lợi ích của phương Tây. Các thị trường hàng hóa, dịch vụ, và cơ sở hạ tầng của Mỹ và châu Âu cần phải tiếp tục đón nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài [foreign direct investment] của Trung Quốc, miễn là các công ty Trung Quốc phải tuân theo luật lệ của Mỹ và châu Âu về an ninh, về tính minh bạch và việc bảo vệ tài sản trí tuệ. Các nước châu Âu cần phải áp dụng một đường lối tương tự với Nga, miễn là các công ty Nga tuân theo luật lệ của EU. Một sự cam kết với nhau để duy trì trật tự kinh tế quốc tế tự do sẽ giúp các Chính phủ phương Tây và các Chính phủ đối tác phi tự do mở ra các đại lộ khác dẫn đến việc hợp tác trên các thách đố chung, như chủ nghĩa khủng bố và thay đổi khí hậu, như Trung Quốc và Hoa Kỳ từng thực hiện trong vài năm qua.

Trong khi đó, các Chính phủ và doanh nghiệp châu Âu cần phải tham gia nỗ lực do Trung Quốc lãnh đạo nhằm nối Đông Bắc Á với châu Âu xuyên qua lục địa Á-Âu, một phần của chuỗi dự án hạ tầng cơ sở khu vực được mênh danh Sáng kiến một Vành đai một Con đường [the Belt and Road Initiative]. Năm 2016, khối lượng thương mại toàn cầu bị ứ đọng trong quí I, rồi rớt xuống 0,8% vào quí II. Điều này phản ánh một sự sa sút có tính cơ cấu đang diễn ra trong tỉ lệ tăng trưởng mậu dịch, trong khi các thị trường mới nổi, như Trung Quốc, chế tạo thêm sản phẩm của mình và các nước phát triển mang một số công việc chế tạo về nước. Trong bối cảnh này, việc đẩy mạnh đầu tư vào cơ sở hạ tầng để nối những vùng ven biển thịnh vượng của châu Á với những vùng nội địa kém phát triển và sau đó với châu Âu có thể tạo thêm cơ hội tăng trưởng kinh tế trong cả hai thế giới, tự do và phi tự do [the liberal and the illiberal worlds]. Thay vì chống lại những sáng kiến này, Hoa Kỳ nên hậu thuẫn những định chế tài chính vùng và đa phương do phương Tây lãnh đạo, như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Tái thiết và Xây dựng châu Âu, và Ngân hàng Phát triển châu Á, khi chúng hợp lực với Ngân hàng Đầu tư Cơ sở Hạ tầng châu Á và Ngân hàng Phát triển Mới (được thiết lập bởi khối BRICS – Brazil, Russia, India, China, và South Africa) để theo đuổi những dự án nằm trong lợi ích kinh tế của mọi nước đồng thời tuân theo những nguyên tắc bền vững về môi trường và tài chính.

Một sự hợp tác tương tự sẽ khó xây dựng với Nga. Hệ thống quản trị kinh tế và chính trị trung ương tập quyền và thiếu minh bạch của Nga khiến cho một sự hội nhập sâu sắc hơn trở thành xung khắc với thị trường và hệ thống dựa vào luật lệ của EU. Ngoài ra, các thành viên khối NATO đã bắt đầu một sự nâng cấp rất cần thiết về quân sự để sẵn sàng đối đầu với những khiêu khích gần đây của Nga. Những căng thẳng của EU và NATO với Nga có khả năng kéo dài, mặc dù việc Trump đắc cử Tổng thống báo hiệu một sự thay đổi trong các quan hệ Mỹ-Nga. Tuy nhiên, sáng kiến của Trung Quốc nhằm xây dựng các con đường mới để kết nối với kinh tế Á-Âu có thể cung cấp một phương án khác cho Hoa Kỳ và châu Âu đối phó với Nga.

Các nước đã bỏ công xây dựng trật tự quốc tế tự do, hiện nay trở nên suy yếu hơn so với ba thế hệ giàu mạnh trước đây. Họ không còn là tấm gương chứng tỏ cho các nước khác thấy sức mạnh của các hệ thống quản trị chính trị và kinh tế tự do. Vì thế, các Chính phủ độc tài có thể ra sức thành lập một trật tự chính trị khác để thay thế, một trật tự được cai trị bằng sức mạnh hơn là dựa vào luật lệ quốc tế.

Nhưng các nhà làm chính sách của phe tự do sẽ sai lầm nếu chỉ thúc đẩy nước mình trở về thế cương quyết phòng ngự hay sử dụng chính sách ngăn chặn. Một bế tắc kéo dài giữa phe ủng hộ trật tự quốc tế tự do và phe chống đối nó có thể vô tình dẫn đến xung đột vũ trang. Một đường lối tốt đẹp hơn sẽ là, các nước tự do phải dọn mình để chấp nhận một thời kỳ sống chung gượng gạo với các nước phi tự do, hợp tác trong một số trường hợp và cạnh tranh trong những trường hợp khác [“vừa hợp tác, vừa đấu tranh”]. Thế giới chính trị quốc tế sẽ tiếp tục chia rẽ giữa các nước tự do và các nước trung ương tập quyền, nhưng cả hai phe đều sẽ phụ thuộc vào một trật tự kinh tế quốc tế tự do [a liberal international economic order] vì thịnh vượng và an ninh nội bộ của họ. Thời gian sẽ cho biết chính thể nào có sức bật mạnh hơn. Nếu lịch sử cho ta ít nhiều chỉ dấu, thì thể chế dân chủ tự do vẫn là một dự đoán hay nhất.


ROBIN NIBLETT là Giám đốc của Chatham House, [Viện Nghiên cứu Hoàng gia về các Vấn đề Quốc tế / The Royal Institute of International Affairs].

Nguồn : https://www.foreignaffairs.com/articles/2016-12-12/liberalism-retreat/div>

No comments:

Post a Comment